“Chim trời bay về sau mưa” tham gia Hội sách Hà Nội
"Chim trời bay về sau cơn mưa" là tập 10 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng với hai đề tài quen thuộc, đã trở thành dấu ấn của tác giả: Miền núi Tây Bắc và những câu chuyện về sự biến chuyển của cảnh vật, con người trong cuộc sống hiện đại. Cuốn sách vừa được NXB Phụ nữ Việt Nam ấn hành và chuẩn bị tham gia Hội sách Hà Nội vào tháng 10 tới.
Bức tranh nhiều màu sắc
"Dưới những bóng cau", "Bài ca Trăng sáng", "Hạng A Tráng", "Mùa gặt ở Na Lin", "Vợ chồng Mìn và những đứa con", "Bên bờ suối Vạch" là những truyện ngắn cho thấy cảm hứng bất tận của nhà văn với vùng núi Tây Bắc. Đây là nơi linh giác của ông ngay lập tức được phát động từ lần đầu ông đặt chân đến với sự mê hoặc với thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây.
Năm truyện ngắn này ghép thành một bức tranh nhiều màu sắc và tuyệt đẹp về giai đoạn cuối những năm kháng chiến chống Mỹ đến tận mới sau giải phóng của mảnh đất Lào Cai (mà tên gọi thân thuộc hơn và từng được sử dụng là Lao Cai). Chọn lựa giai đoạn 1970 - 1980 này, tập truyện như phần nào nhấn vào sự thay đổi, biến động của hoạt động cách mạng cũng như cách nhìn nhận về cuộc sống và thời cuộc của những dân tộc miền núi nơi đây.
"Chim trời bay về sau bão" - tập truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng |
“Lúc này, chiếc áo khoác lanh của chàng đã được cởi ra và phủ phục trên cành cây mua như con bướm nằm ngủ. Tấm lưng trần của chàng đã được phô ra đỏ au màu nước đồng chảy. Cái quần rộng của chàng đã xắn cao tới bắp vế. Bắp chân dưới nổi gân chằng chằng. Tuy vậy sức chàng vẫn không hề biết đến hao vơi. Đất vẫn nở bùng bục. Mặt ruộng vẫn cuồn cuộn những luống đất mới được vật lên thẫm mầu nâu tươi. Xá cày vẫn một kiểu xoáy ốc quen thuộc, vân vân như những đường chỉ thêu vô cùng đẹp mắt. Đi cày, chàng là người dũng sĩ đấu mình với đất, lại cũng là người nghệ sĩ tạo vẽ lên những thớ đất đường nét và sắc màu” (trích "Hạng A Tráng") |
Ở họ vẫn toát lên tinh thần đấu tranh thuần khiết, mãnh liệt, chân thành và anh dũng cho đất nước, vẫn hướng mình tới những đổi mới sau khi giải phóng với ước mong cuộc sống tốt đẹp trong một niềm tin vào Đảng, nhà nước.
Cũng ở những con người chất phác đó, họ kín đáo, giấu mình trong những phong tục, tập quán cổ xưa nhất, lấy đó làm nguồn lực tinh thần, làm giá trị cốt lõi để tiếp nhận thời đại mới, để chủ động phá bỏ biết bao định kiến, áp buộc của thời chiến đã qua.
Đó là anh thanh niên Hạng A Tráng kiên trì xung phong tòng quân ra tiền tuyến trong suốt một năm liền, tự tôi luyện sức vóc mình bằng những đường cày nặng nhọc nhất trên những mảnh đất khô cằn, khó khăn nhất của bản Y Lìn Hồ; Là Hòa trong "Dưới những bóng cau", cô nhân viên trẻ tuổi dưới xuôi lên vận động về công cụ sản xuất cho bà con người Tày. Cô gái dần hòa mình với đời sống của người dân Tày, cảm nhận tình yêu thương và sự đùm bọc ấm áp của từng người dân làng chân chất.
Hay tình cảm của vợ chồng Mìn - Cơi thấm đậm sự chịu thương, chịu khó, sự thấu hiểu và ủng hộ vợ từ người chồng và sự mạnh mẽ, quyết liệt, tình yêu vô bờ bến của người vợ Mông với người chồng khuyết tật…
Mỗi câu chuyện là mỗi phận con người nhưng đều tựu chung lại ở sự gắn kết tình người, như cái cách thiên nhiên khắc nghiệt, hoang hoải, kỳ vĩ và mê mị nơi dọc hoành Hoàng Liên Sơn tạc lên thể xác và con tim của từng tộc người thiểu số.
Niềm hy vọng vào tình người
Rời xa miền núi Tây Bắc, nhà văn Ma Văn Kháng dẫn dắt người đọc vào hành trình ngược không gian và thời gian trong tâm trí những con người đã đi qua một thời xưa cũ. Nơi còn đó một giai đoạn kháng chiến anh hùng, bom đạn khốc liệt của đất nước, ở lại đó những người lính, người con anh dũng đã hi sinh, những nhân tài đất nước giờ chỉ thuộc về miền kí ức.
Tròng trành trong nỗi nhớ là sự cô đơn của những con người đã đi qua tháng năm như ông Nam trong "Thành phố miền biên", người luôn hoang hoải một nỗi nhớ về người bạn, liệt sĩ, nhà văn, nhà báo Bùi Nguyên Khiết; Hay cũng là Nam, người bị bỏ lại sau chiến tranh, mình mang thương tật, bươn chải giữa chốn đô thị tấp nập, thiếu sự ấm áp của tình người trong "Những ngày xa xưa"...
Nhà văn Ma Văn Kháng say mình trong những câu từ khắc tả thiên nhiên hùng vĩ Tây Bắc, cũng như muốn dẫn dụ người đọc vào không gian văn hóa đa sắc màu nơi đây, với những lễ hội hoa ban, lồng tồng, hay những chi tiết nhỏ nhất, khơi lên sự tò mò về trang phục, lao động, huyết tộc và sự bình dị, hoang sơ tuyệt đẹp của con người miền núi.
Sau đó, dòng văn của ông lại trầm lắng, u buồn và đượm đầy tiếc nuối khi khơi lên những chiêm nghiệm về cuộc đời trải nhiều thăng trầm, cách con người đối diện với mọi đổi thay, khi thì lạc quan, lúc lại buông xuôi mà uất ức.
Tựu lại vẫn là những niềm hy vọng vào tình người - thứ gắn kết vô hình nhưng lại bền chặt nhất của nhân loại, để con người ta sống tiếp, sống cho trọn đời người.
Nhà văn Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại Hà Nội. Ông là một nhà văn nổi bật của nền văn học đương đại Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, đặc biệt từ khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới. Các tác phẩm của ông đã đạt được nhiều giải thưởng văn học và được đông đảo công chúng biết đến do được trích dẫn trong chương trình giảng dạy phổ thông môn Ngữ Văn. Ông đã sáng tác hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, phần lớn lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc. Ông từng đạt nhiều giải thưởng văn học lớn trong nước và quốc tế, tiêu biểu như: Giải thưởng Văn học ASEAN 1998; Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật 2012. |