Chức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 5): Vai trò của điều tiết trong văn hóa dân gian Việt Nam
Ở trên, chúng ta đã bước đầu đề cập đến vai trò điều tiết, hóa giải, hòa giải của hương ước làng - một sản phẩm văn hóa độc đáo của văn hóa truyền thống Việt Nam.
Đặc điểm nổi bật của hương ước làng (truyền thống) là ở chỗ, đây là dạng văn bản dưới luật, mang tính tự quản, tự nguyện và thiên về điều chỉnh (điều tiết) hành vi con người theo dư luận, đạo lý và tình cảm xóm làng, vì thế nó là một sức mạnh văn hóa mang tính ưu việt, trực tiếp giáo dục, xây dựng nếp sống, lối sống có văn hóa bằng sự thuyết phục, đồng thuận về mặt đạo lý.

Làng cổ Thổ Hà
Gìn giữ văn hóa qua “tộc ước” và sáng tạo dân gian
Ở một số vùng nông thôn còn có cả những quy ước của “tộc họ văn hóa”. Tộc họ văn hóa này là gạch nối giữa gia đình và thôn, làng.
Ví dụ, nối tiếp truyền thống, khi xây dựng làng văn hóa, các dòng họ ở Quảng Nam đều soạn thảo “Tộc ước văn hóa”. Nội dung chính của tộc ước là: Giữ gìn và tăng cường đoàn kết nội bộ tộc họ và giữa các gia tộc ở địa phương; giáo dục con cháu sống có đạo lý, nghĩa tình, giữ gìn thuần phong, mỹ tục, thực hiện phong trào “5 không” (không có người vi phạm pháp luật, kể cả say rượu, bia, quậy phá; không có người mù chữ, thất học; không có hộ đói, nghèo; không có người nợ nần dây dưa; không có người sinh con thứ ba trở lên).
Mọi người trong dòng tộc, trong làng đều đồng thuận, đồng lòng, tự giác, tự nguyện chấp hành nếu không muốn bị trở thành lạc lõng, thiếu văn hóa. Ở đây, hương ước, tộc ước giảm tối đa giải pháp trừng trị, xử phạt theo khung pháp luật. Điều đó thể hiện rất sinh động vai trò điều tiết của văn hóa trong các hương ước.
Vai trò điều tiết còn thể hiện rất đậm nét trong một sản phẩm văn hóa độc đáo của dân tộc ta, đó là ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ. Có thể tìm thấy sự điều tiết rất đa dạng được thể hiện trong sáng tạo văn hóa này, hay nói một cách khác, cha ông ta rất thông minh khi đưa kinh nghiệm ứng xử văn hóa vào ca dao để gửi gắm trong đó những điều tiết cần thiết trong các quan hệ của con người với thiên nhiên, với xã hội, với cộng đồng và với chính mình.
Cách diễn đạt rất đời thường, nhẹ nhàng, mộc mạc, nhiều khi chỉ là miêu tả một quan hệ, một sự việc, một va chạm, xung khắc nào đó hoặc thể hiện một kinh nghiệm sống, một sự nhắn nhủ, dặn dò, tâm sự, song nội dung, mục đích của sự điều tiết lại rất sâu sắc và thuyết phục.
Chúng ta thường quen với việc phân tích nội dung xã hội trong các sáng tạo văn hóa này mà nhiều khi không chú tâm đến chiều sâu kinh nghiệm sống được biểu đạt trong đó. Mà kinh nghiệm sống luôn có giá trị văn hóa, trước hết là giúp ta tự lựa chọn, tự điều tiết.
Ví dụ như cha ông ta từng nói: “Đói cho sạch, rách cho thơm” hay “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Hai câu tục ngữ ngắn gọn, dễ tiếp nhận ấy đã gửi gắm trong đó không chỉ một lời khuyên, một kinh nghiệm mà còn là một giá trị, một chuẩn mực văn hóa định hướng cho một lối sống, cho một sự tỉnh táo văn hóa.
Tìm đọc trong ca dao Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ ý tưởng của các nhà sáng tạo dân gian - quần chúng - về những lời khuyên, những kinh nghiệm, sự chọn lựa và điều tiết về văn hóa, đạo đức, lối sống, nếp sống, cách ứng xử. Điều thú vị là những sự điều tiết đó không phải là sự giáo huấn khô khan, lý thuyết mà bao giờ cũng là những hình ảnh, biểu tượng, hình tượng sinh động của cuộc sống.
Cái biểu đạt cụ thể đó chứa đựng từ trong chiều sâu của chính nó - cái được biểu đạt - tức là giá trị văn hóa, mà trong nhiều câu ca dao, dân ca nổi bật là giá trị điều tiết. Ví dụ, trong tình yêu nam nữ có câu: Em tưởng nước giếng sâu/ Em nối sợi gầu dài/ Ai ngờ nước giếng cạn/ Em tiếc hoài sợi dây. Cái biểu đạt ở đây thật là đơn giản: Cái giếng, sợi dây gầu và cô gái đi múc nước. Song, cái được biểu đạt là sự thất vọng, sự tiếc nuối và một lời cảnh báo! Ý nghĩa điều tiết ở đây là sự lựa chọn - lựa chọn tỉnh táo đối với chiều sâu nhân cách con người trong tình yêu. Đó là kết quả của sự trải nghiệm văn hóa.
Điều tiết quan hệ xã hội qua văn hóa dân gian
Trong văn hóa dân gian có nhiều cách thể hiện vai trò điều tiết của văn hóa trong các quan hệ xã hội, trong đó nổi bật hơn cả là quan hệ vợ chồng. Sự giận hờn, sự va chạm, xung khắc có khi dẫn tới cãi vã, xung đột là lẽ thường trong đời sống thực tế của quan hệ này. Nhận biết điều đó, cha ông ta đã dùng văn hóa để “hóa giải”, để “làm hòa”, để “hàn gắn”, và phải chăng, đó là các cung bậc khác nhau của điều tiết bằng văn hóa. Có thể thấy điều đó qua một số dẫn chứng tiêu biểu như:
Đối với người vợ: Chồng giận thì vợ làm lành/ Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì?; hoặc như: Chàng ơi thiếp có lỗi lầm/ Xin chàng đóng cửa âm thầm dạy nhau.
Đối với người chồng: Ai ơi đừng thấy đó bỏ đăng/ Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn; hoặc như: Chim bay về cội, cá lội về rừng/ Muốn nên cơ nghiệp thì đừng bỏ em.
Và đối với cả vợ và chồng: Chồng giận thì vợ bớt lời/ Chồng giận, vợ giận thì dùi nó quăng.
Bên cạnh nội dung xã hội, cha ông ta, qua sự trải nghiệm của mình, đã dùng văn hóa và sức mạnh của nó để góp phần điều tiết, điều chỉnh một quan hệ xã hội không hề đơn giản từ xa xưa đến nay.
Không chỉ dừng lại ở năng lực điều tiết các quan hệ tình yêu, hôn nhân, mà văn hóa dân gian Việt Nam rất chú trọng nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong điều tiết các quan hệ xã hội và lối sống.
Cuộc sống cần rất nhiều sự tổng kết, cảnh báo, điều chỉnh, hóa giải như vậy để tạo nên những quan hệ văn hóa tốt đẹp, lành mạnh giữa con người với cộng đồng, con người với con người.
Trong quan hệ thân thuộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Trong quan hệ xã hội: Chữ nhẫn là chữ tượng vàng/ Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu. Hay: Một câu nhịn, chín câu lành; Lá lành đùm lá rách; Lời chào cao hơn mâm cỗ...
Một mặt, dùng văn hóa dân gian để trao truyền những giá trị văn hóa, và bằng cách đó, giúp thế hệ sau tự điều tiết các quan hệ sống của mình, tạo nên sự hài hòa, cố kết trong cộng đồng; mặt khác, cha ông ta còn dùng văn hóa để phê phán những cái xấu, cái ác, cái phản văn hóa nhằm răn đe, khuyên nhủ con người.
Phải chăng, đó cũng là một phương thức của sự điều tiết xã hội? Xin trích dẫn một vài câu trong vô số những cách thể hiện nội dung trên trong văn hóa dân gian Việt Nam: Ăn cháo đá bát; Có mới nới cũ; Những người hữu thủy vô chung/ Là người tệ bạc tin dùng làm chi; Sống đục sao bằng thác trong...
Khi phân tích những điều trên đây để cố gắng minh chứng cho vai trò điều tiết xã hội bằng văn hóa dân gian, chúng tôi có ý thức tránh sự gò ép hay gán ghép một thuật ngữ “hiện đại” vào một giai đoạn văn hóa cổ xưa.
Song, nếu nhìn nhận từ thực tiễn, chúng ta dễ dàng nhận thấy rất rõ tác dụng điều chỉnh, cảnh báo, lựa chọn, luôn luôn được lan tỏa và truyền bá của mảng văn hóa này đối với tinh thần, tình cảm và hành vi của con người từ khi nó xuất hiện đến nay, dù cho chúng ta không gọi nó là chức năng điều tiết xã hội.









