Đồng bào dân tộc Thái Nguyên vươn lên nhờ tri thức, công nghệ và văn hóa
Nhờ kết hợp nâng cao tri thức, ứng dụng công nghệ số và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên không chỉ cải thiện đời sống mà còn xây dựng sinh kế bền vững, tạo đà phát triển kinh tế vùng miền núi.
Trong những năm gần đây, Thái Nguyên đã nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.
Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh đóng vai trò trung tâm trong việc tham mưu, điều phối và tổ chức thực hiện các dự án, đồng thời là cầu nối giữa chính quyền và người dân, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống cộng đồng.

Thái Nguyên đã nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.
Chuyển đổi sinh kế và phát triển kinh tế bền vững
Trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã nỗ lực triển khai nhiều chính sách hỗ trợ sinh kế, phát triển sản xuất và ổn định dân cư tạo ra thay đổi rõ rệt trong đời sống của đồng bào.
Tại Nghĩa Tá, nơi đồng bào dân tộc chiếm tới 98% dân số, người dân được hướng dẫn phát triển kinh tế rừng. Nhờ các chương trình hỗ trợ đất sản xuất, chuyển đổi nghề, nhiều hộ đã hình thành chuỗi liên kết từ trồng, chăm sóc, khai thác đến chế biến gỗ. Kết quả, nhiều gia đình đã đạt thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm, minh chứng sống động cho hiệu quả chính sách sinh kế của tỉnh.
Cùng với đó, Thượng Minh được định hướng phát triển các cây trồng đặc sản như bí xanh thơm, lúa nếp Tài, dong riềng, chè, hồi… Hợp tác xã Yến Dương đã liên kết sản xuất với hàng trăm hộ dân, xây dựng thương hiệu OCOP đạt chuẩn từ 3 đến 4 sao, bao gồm Miến dong Yến Dương, Trà Lê Hà, Bí thơm, Gạo nếp Tài. Những sản phẩm này không chỉ giúp người dân tăng thu nhập mà còn khẳng định vị thế nông sản vùng cao Thái Nguyên trên thị trường.
Thái Nguyên cũng chú trọng bảo vệ rừng gắn với phát triển sinh kế. Từ năm 2022 đến 2025, hơn 2.276 ha rừng được khoán bảo vệ cho cộng đồng dân cư, cùng hơn 61.304 ha rừng tự nhiên được giao cho hộ gia đình, với mức hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm. Các mô hình này vừa giữ rừng, vừa tạo thu nhập bền vững, góp phần cải thiện đời sống đồng bào miền núi một cách ổn định và lâu dài.
Ông Hoàng Thanh Oai, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Thái Nguyên, nhấn mạnh: “Chúng tôi hướng tới việc đồng bào không chỉ được hỗ trợ sinh kế mà còn nắm vững kiến thức, kỹ năng để làm chủ cuộc sống. Khi người dân biết cách ứng dụng nguồn lực sẵn có và tổ chức sản xuất hiệu quả, họ sẽ chủ động xây dựng các mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện của mình”.
Tri thức và công nghệ – công cụ biến đổi cộng đồng
Bên cạnh sinh kế, Thái Nguyên xác định tri thức và công nghệ là yếu tố then chốt để đồng bào miền núi tiếp cận cơ hội và rút ngắn khoảng cách phát triển so với các đô thị. Sở Dân tộc và Tôn giáo phối hợp tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng số, hướng dẫn sử dụng thiết bị thông minh, truy cập Internet, tra cứu tài liệu và học trực tuyến.

Ông Lường Văn Quyến, Phó trưởng phòng Chính sách dân tộc, Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Thái Nguyên tuyên truyền chính sách dân tộc và các văn bản liên quan trong vùng đồng bào DTTS và miền núi năm 2025.
Nhờ đó, đồng bào không chỉ tiếp cận thông tin nhanh hơn mà còn biết cách khai thác công nghệ để phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế hộ và du lịch cộng đồng. Các mô hình như “Phiên chợ thông tin vùng cao” hay “Ngày hội văn hóa – du lịch dân tộc thiểu số” đã trở thành môi trường thực hành kỹ năng truyền thông, quảng bá sản phẩm nông sản, ẩm thực và nghề truyền thống. Những hoạt động này giúp đồng bào học hỏi, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình.
Các dự án truyền thông, như Dự án 6 (bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa gắn với du lịch) và Dự án 10 (truyền thông, kiểm tra, giám sát Chương trình MTQG), được triển khai sâu rộng. Hội nghị cung cấp thông tin cho người có uy tín, buổi tuyên truyền lưu động, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ dân gian, triển lãm hình ảnh và Câu lạc bộ văn hóa – thông tin cơ sở đã trở thành những “điểm sáng” trong công tác truyền thông vùng cao, đặc biệt ở các địa phương như Định Hóa, Võ Nhai, Đại Từ, Đồng Hỷ.
Ông Oai nhận định: “Tri thức và công nghệ mở ra cơ hội hội nhập, nâng cao năng lực sản xuất và quảng bá sản phẩm. Khi đồng bào biết cách sử dụng công nghệ số và thông tin, họ sẽ trở thành người chủ động trong phát triển kinh tế, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào hỗ trợ từ bên ngoài”.
Văn hóa truyền thống – nền tảng bền vững
Thái Nguyên đặc biệt chú trọng việc giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống. Khu bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải, với 25 ha và hàng chục nhà sàn cổ, vừa gìn giữ phong tục, tập quán vừa trở thành điểm đến du lịch cộng đồng được Tổ chức Du lịch Liên hợp quốc công nhận.
Các hoạt động văn hóa – du lịch không chỉ bảo tồn giá trị truyền thống mà còn giúp đồng bào học hỏi kỹ năng kinh doanh, quảng bá sản phẩm và nâng cao nhận thức về giá trị bản sắc dân tộc. Sinh kế gắn liền với văn hóa và du lịch mở ra một hướng phát triển bền vững, nơi đồng bào vừa bảo tồn môi trường, vừa cải thiện đời sống, vừa tăng cường khả năng hội nhập thị trường.
Thực tiễn tại Thái Nguyên cho thấy, giảm nghèo toàn diện không chỉ là cung cấp sinh kế mà còn là nâng cao năng lực con người – từ tri thức, kỹ năng số, quản lý sản xuất đến bảo tồn văn hóa. Đồng bào từ người nhận hỗ trợ trở thành người kiến tạo cộng đồng, chủ động trong phát triển kinh tế và bảo vệ bản sắc dân tộc.
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Hoàng Thanh Oai nhấn mạnh: “Chúng tôi hướng tới cộng đồng dân tộc thiểu số giàu bản sắc, đủ tri thức và tự tin hội nhập. Khi đồng bào được trang bị kiến thức, kỹ năng và công cụ phù hợp, họ có thể phát triển kinh tế ổn định, bảo vệ môi trường và gìn giữ văn hóa truyền thống. Đây chính là nền tảng phát triển bền vững lâu dài”.
Với cách làm sáng tạo, đồng bộ và lấy con người làm trung tâm, Thái Nguyên đã biến chủ trương phát triển vùng dân tộc thiểu số trở thành thực tế sống động. Đồng bào miền núi không chỉ thoát nghèo mà còn tự tin vươn lên, làm chủ cuộc sống, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển tri thức và ứng dụng công nghệ. Đây là minh chứng rõ nét cho một mô hình giảm nghèo bền vững, nơi tri thức, công nghệ và văn hóa hội tụ, mở ra tương lai phát triển toàn diện cho các cộng đồng dân tộc thiểu số.









