Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, sáng nay (24/6), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, với 416/416 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (bằng 87,03% tổng số đại biểu Quốc hội).
Hiệu lực thi hành từ 1/7/2025
Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 16 như sau: “2. Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con khi thực hiện thủ tục về khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo hướng dẫn của Chính phủ. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”.
Đáng chú ý, tại Điều 19, một số nội dung được sửa đổi, bổ sung thành:
“Điều 19. Điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam
1. Công dân nước ngoài và người không quốc tịch có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp là người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam;
d) Đang thường trú ở Việt Nam;
đ) Thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam;
e) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp.
2. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ hoặc chồng hoặc có con đẻ là công dân Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm c, đ và e khoản 1 điều này...”.
Quy định tại Điều 19 cũng nêu rõ: “Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên bằng tiếng Việt hoặc bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam. Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam...”.
Cùng với đó, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 33 như sau: “Điều 33. Căn cứ hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam
1. Người đã nhập quốc tịch Việt Nam, trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19, Điều 23 của Luật này, cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam, bị hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam khi có một trong các hành vi sau đây:
a) Cố ý khai báo, cam đoan không đúng sự thật, giả mạo giấy tờ khi xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam;
b) Lợi dụng việc nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; lợi dụng việc giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình tham dự phiên họp.
2. Việc hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam của vợ hoặc chồng không làm thay đổi quốc tịch Việt Nam của người kia”.
Đồng thời, Luật cũng sửa đổi tên gọi của Mục 4 Chương III: “Mục 4 - Hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam”.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài (nếu có) trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Về điều khoản chuyển tiếp, hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam, xin thôi quốc tịch Việt Nam tiếp nhận trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành thì được giải quyết theo quy định của Luật này.
Khẳng định rõ nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam
Trước đó, Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày cho biết, một số ý kiến đề nghị thuyết minh, làm rõ để bảo đảm tính khả thi của quy định nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam cũng như yêu cầu về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Một số ý kiến đề nghị rà soát Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Dẫn độ, Luật Cư trú và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... liên quan đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Chính phủ cho rằng, để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định.
Quy định trên nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam; bảo đảm phù hợp với các quy định có liên quan như Bộ Luật Dân sự , Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Đoàn ĐBQH Hà Nội biểu quyết tại phiên họp.
Đồng thời, dự thảo Luật đã có quy định giao các Bộ, ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Về quy định tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Điều 5, Chính phủ đã chỉnh lý để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị đối với dự án Luật.
Đồng thời tiếp thu ý kiến của các ĐBQH đề nghị cân nhắc kỹ quy định ngoại lệ đối với cả 4 nhóm đối tượng, nhất là các chức danh thuộc lực lượng vũ trang và cơ quan dân cử, cơ yếu do đây là những vị trí yêu cầu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhà nước và Nhân dân, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.
Theo đó, tại khoản 5 Điều 5 quy định theo hướng quy định nguyên tắc “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” đối với 4 nhóm và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật khác có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này…