Huyền tích về ngôi đình thiêng bên dòng sông Mẹ
Đình Chèm (phường Thuỵ Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) được đông đảo giới nghiên cứu công nhận là một trong những công trình tâm linh độc đáo nhất của Thủ đô về mặt kiến trúc, xây dựng và đặc biệt là phong thuỷ. Cả ngàn năm qua, nơi đây vững vàng bên bờ sông Hồng như “cọc tiêu” kiên cường che chắn cho đất Thăng Long.
Đức Thánh hộ quốc, an dân
Sông Hồng được mệnh danh là dòng sông Mẹ, chứa đựng phù sa, mang tới sự trù mật.
Tuy nhiên, những con sóng rầm rì ngày đêm vỗ ộp oạp vào bờ cũng mang theo lời cảnh báo rằng sông Mẹ cũng đôi khi tiềm ẩn sự phá hoại khó lường.
Bằng chứng là, trong lịch sử, đã ghi nhận không ít lần con nước dữ phá tung đê bao, gây ngập lụt và mất mát.
Từ ngã ba Bạch Hạc (Phú Thọ), xuôi theo bờ Nam sông Hồng về tới trung tâm Hà Nội, đình Chèm là công trình tâm linh duy nhất nằm phía ngoài đê, sát với mép nước vẫn sừng sững tồn tại suốt cả quãng thời gian hàng trăm năm. Phải chăng, sức mạnh nào đó đã bảo vệ, che chở cho ngôi đình trước những con thịnh nộ của dòng sông Mẹ?
Đình Chèm (phường Thuỵ Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) thờ Đức Thánh Lý Ông Trọng |
Đem câu hỏi này để tìm lời giải đáp với các cụ cao niên tại làng Chèm, chúng tôi nhận được câu trả lời chắc nịch: “Nhờ sự phù hộ độ trì của đức Thánh Chèm – ngài Lý Ông Trọng, nên ngôi đình cũng như người dân địa phương đời đời được bình an, hưởng phúc”.
Theo ngọc phả của Đình Chèm, Đức Thánh Chèm Lý Ông Trọng là một trong "Tứ Đại Trụ Thần" (tức là bốn vị thần tối linh ở nước ta được cho là "Hương, Bổng, Đổng, Đằng". Trong đó, Hương là Thuỵ Hương Lý Thân – Đức Thánh Chèm, Bổng là Phù Đổng Thiên Vương, Đổng là Huyền Thiên Trấn Vũ, Đằng là vua Mây họ Phạm). Ngài tên thật là Lý Thân, sinh ra tại làng Chèm, nay thuộc Thuỵ Phương, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Ngài sống vào cuối đời Hùng Vương thứ 18 và những năm đầu dưới thời An Dương Vương.
“Đình Chèm ngày nay được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, tiền nhị hậu công với đa dạng các hạng mục công trình, tạo nên một quy mô bề thế" - PGS.TS Trang Thanh Hiền (giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam). |
Trong Đại Việt sử ký toàn thư mô tả Lý Ông Trọng "cao 2 trượng 3 thước". Trong cuốn Từ Nguyên thì cho rằng "thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường". Lúc trẻ, Lý Ông Trọng đến hương ấp làm lực dịch. Khi bị trưởng quan đánh đòn, ông có than rằng: "Người ta ở đời có tráng chí, hãy nên như chim loan, chim phương bay cao chín tầng trời, bay xa ngàn vạn dặm, chứ lẽ nào quanh quẩn mãi ở đây, chịu để cho người ta hành hạ?".
Sau đó, Lý Ông Trọng quyết tâm tu chí, dùi mài kinh sử, sau sang nước Tần bang giao, được vua Tần trọng dụng. Trong cả Đại Việt sử ký và Việt điện u linh đều ghi lại rằng, ông được cho làm quan tới chức Tư lệ hiệu uý. Đến thời nhà Thục, ông trở thành tướng giỏi, được cử đi sứ giao bang với nước Tần.
Dã sử chép rằng, Tần Thuỷ Hoàng khâm phục võ tài của Lý Ông Trọng , bèn ngỏ ý mời vị sứ giả phương Nam trừ giặc Hung Nô. Tần Thuỷ Hoàng phong cho ông làm Vạn Tín Hầu, tiên phong một đội quân hùng mạnh, ra quân trận nào thắng trận ấy.
Mặc dù nước Tần đã thống nhất, uy danh ngàn dặm xa. Tuy nhiên, biên giới phía Bắc luôn bị quân Hung Nô lăm le xâm phạm. Kể có Vạn Lý Trường Thành bao bọc nhưng quân Tần vẫn nhiều phen phải khốn đốn. Vua Tần phái Lý Ông Trọng đến trấn giữ đất Lâm Thao, thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay. Uy danh lừng lẫy của Lý Ông Trọng khiến quân Hung Nô phải khiếp sợ, nhìn từ xa đã run rẩy, hồn xiêu phách lạc.
Các chi tiết chạm khắc tại Đình Chèm được đánh giá rất cao về tính nghệ thuật và kỳ công |
Hồi sau, vua Tần vì trọng dụng, tin yêu mà muốn giữ chân ông nên bèn gả công chúa Bạch Tĩnh Cung, gọi là Tây Cung công chúa. Có thể nói rằng, là một sứ giả giao bang, vừa được phong chức, vừa trở thành phò mã, thật hiếm trong lịch sử cả hai nước.
Thế rồi, phồn hoa đô hội, danh lợi quan trường nơi đất khách quê người chẳng thể giữ nổi chân
Năm 1990, đình Chèm được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Ngày 25/6/2018, đình Chèm được nhận bằng công nhận Di tích quốc gia đặc biệt của Chính phủ với những giá trị về kiến trúc, văn hoá. |
ông. Tâm tư và cõi lòng của ông luôn hướng về cố quốc, ngày đêm mong mỏi sớm ngày được hồi hương để đoàn tụ gia viên. Vì thế, Tần Thuỷ Hoàng đành đồng ý để ông trở về nước.
Nghe tin đó, quân Hung Nô lại lăm le xâm phạm bờ cõi nước Tần. Vua Tần lại sai sứ sang nước ta lúc bấy giờ, thỉnh mời Lý Ông Trọng trở về giúp. Lúc ấy, Lý Ông Trọng tìm cớ thoái lui, muốn yên vị ở quê nhà, không muốn phục vụ nước Tần. Ông bèn kiếm kế giả chết, khiến vua Tần đành đúc một pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng. Pho tượng này rỗng, bên trong chứa được vài chục người, có chỗ điều khiển được tay chân, đặt ở cửa Tư Mã Hàm cung. Khi quân Hung Nô định kéo sang, nhìn từ xa thấy pho tượng cứ ngỡ Lý Ông Trọng. Đám quân vội vàng tháo chạy tứ phía, không dám tiến về nước Tần.
Cụ Nguyễn Mạnh Thìn (Phó Ban quản lý Di tích quốc gia đặc biệt Đình Chèm) cảm khái: “Đức Thánh Lý Ông Trọng là vị thần linh hộ quốc, an dân. Sự hiện diện của Ngài thể hiện cho ước mơ, khát vọng hoà bình, an lạc của người dân nước Việt từ hàng ngàn đời”.
Linh thiêng Đình Chèm
Sau khi Thánh Chèm hoá về với hư vô, người dân quê hương tưởng nhớ ơn đức của Ngài, lập nơi thờ cúng bên bờ sông Hồng. Đình quay về hướng Bắc, hướng ra con nước đục ngầu tựa như một lá chắn lừng lững che chở cho Nhân dân.
Nói về kiến trúc của Đình Chèm, PGS.TS Trang Thanh Hiền (giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam) nhận xét: “Đình Chèm ngày nay được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, tiền nhị hậu công với đa dạng các hạng mục công trình, tạo nên một quy mô bề thế. Bắt đầu là bốn trụ biểu đắp long, ly, quy, phụng, được dựng sát bờ sông, được xem là nghi môn ngoại của đình. Tiếp đến là nghi môn nội, thường được gọi là Tàu Tượng, là một tòa ba gian hai chái, mở ba cửa lớn. Hai bên đặt ông quản tượng cưỡi voi, và ngựa chiến của Đức Thánh".
Nhân dân làng Chèm và lân cận tưởng nhớ ơn đức của Đức Thánh Lý Ông Trọng nên lập nơi thờ cúng, hương khói, cầu mong sự bảo vệ, che chở từ Ngài |
Theo ghi chép trên thượng lương thì nghi môn được trùng tu năm Cảnh Hưng 34 (1773). Trải qua nhiều biến thiên lịch sử, nghi môn ngoại và nghi môn nội vẫn giữ nguyên dáng vẻ. Dù nghi môn ngoại với 4 trụ biểu tương đối lớn, khá lệch về kích thước trung bình so với nghi môn nội nhưng lại vẫn hài hòa. Đôi câu đối trên trụ biểu có nội dung: “Hoa di vọng biểu cao, đế khuyết do nghi đồng hữu ảnh/Miếu mạo nguy sơn trĩ, Phật tan tự tín thủy vô ba". Dịch nghĩa: Hoa Di trông cột trụ biểu cao, cung vua còn tưởng như thấy bóng tượng đồng/Đền miếu cao như núi lớn, bến phật tự ấy tin rằng không con sóng cả”.
Dẫn phóng viên chiêm bái cấm cung, cụ Nguyễn Mạnh Thìn tự hào cho biết, Đình Chèm sở hữu nhiều đặc điểm độc đáo, hi hữu. Đáng chú ý tại đình có cung cấm gồm 10 pho tượng bằng gỗ trầm hương là tượng ông Lý Ông Trọng, bà Bạch Tĩnh Cung cao 3,2m, hai bên là 6 người con của Đức Thánh, còn gọi là Lục vị vương và 2 nàng hầu. Hiện nay, cứ mỗi ngày sóc vọng tức ngày rằm, mùng 1 âm lịch hàng tháng đình có mở cửa để nhân dân chiêm bái.
"Gỗ tạc tượng Đức Ông, Đức Bà trước đây trôi trên sông Hồng ngay trước cửa đình. Người dân 3 làng sau đó hò nhau vớt lên tạc tượng. Xưa còn nghiêm cấm phụ nữ không được vào cung cấm, các cụ trong ban khánh tiết mới được vào làm lễ" - ông Thìn tiết lộ.
Hội đình Chèm cũng được đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia |
Nói về oai danh của Đức Thánh Lý Ông Trọng, sử sách chép nhiều câu chuyện vừa hư vừa thực. Tương truyền, có tướng nhà Đường là Triệu Xương, khi đi qua khúc sông làng Chèm, từng mộng thấy Lý Ông Trọng mà kinh tâm động phách, hốt hoảng lo sợ. Sau đó, Triệu Xương liền sai người khắc tượng gỗ sơn son thếp vàng, tu bổ đền thờ nguy nga, đem lễ vật tiến dâng, khói hương lúc nào cũng đủ đầy, nghi ngút.
Đến năm 864, thời kỳ Bắc thuộc, Cao Biền được cử sang làm An Nam đô hộ có loạn ở Tây Nam, Cao Biền được Lý Ông Trọng hiển linh báo mộng ban việc trị bình nên rất cảm phục bèn cho sửa lại đình lớn hơn quy mô cũ, tạc gỗ làm tượng, sơn son thiếp vàng gọi là đình Lý Hiệu Úy và cho người cúng tế hàng năm. Cũng theo lời người dân kể lại, tới thời Lê Trung Hưng (giai đoạn 1533-1789) đình được đại trùng tu, xây dựng bề thế như ngày hôm nay.
Người dân thành kính cầu bình an, che chở tại Đình Chèm |
Năm 1990, đình Chèm được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Ngày 25/6/2018, đình Chèm được nhận bằng công nhận Di tích quốc gia đặc biệt của Chính phủ với những giá trị về kiến trúc, văn hoá. Trước đó, hội đình Chèm cũng được đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Lễ hội Chèm được diễn ra vào ngày 15 tháng 5 âm lịch. Các nghi thức quan trọng của hội đều tổ chức ở đình Chèm. Hội Chèm gồm nhiều hoạt động ý nghĩa như lễ mộc dục (tắm tượng), rước nước, rước kiệu, dâng hương, hội thi bơi, bắt vịt nước, thả chim bồ câu,... Theo thánh phả có ghi, hội đình Chèm tổ chức nhằm kỷ niệm ngày khải hoàn mừng công thắng trận và lễ cầu siêu cho các tướng sĩ của Đức Thánh Lý Ông Trọng trong kháng chiến chống giặc phương Bắc. Nhưng ẩn sâu đằng sau những lễ nghi ấy là mong muốn cầu mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, cầu cho mùa màng bội thu của người dân gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước của đồng bằng châu thổ sông Hồng. |