Vai trò của trí thức trong cách mạng và kháng chiến
Đảng ta luôn chú trọng tinh thần đoàn kết dân tộc, coi trọng trí thức. Nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng cũng là những trí thức lớn, có ảnh hưởng...
Nhằm bảo đảm cho sự thành công của cách mạng, bên cạnh liên minh công - nông và các thành phần khác trong xã hội, lực lượng kháng chiến không thể thiếu bộ phận tinh hoa là giới văn hóa. Chính vì vậy, năm 1943, Đảng đã chủ trương thành lập Hội Văn hóa Cứu quốc. Với tinh thần yêu nước sâu sắc, nhiều quan lại và trí thức lớn đã âm thầm tham gia Việt Minh ngay trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng (người mặc áo dài đứng bên phải) và nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này là Chính phủ Liên hiệp kháng chiến). Ảnh: Tư liệu
1. Thành công của Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc có đóng góp quan trọng của nhiều trí thức lớn như Phạm Khắc Hòe, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn… Sự tham gia của đội ngũ trí thức đã góp phần quan trọng vào việc hoạch định đường lối, củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng nền tảng cho một nhà nước mới.
Luật sư Phạm Khắc Hòe (1901-1995, quê ở Hà Tĩnh) từng là Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của vua Bảo Đại. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), ông đã kịp thời tham mưu và soạn thảo đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, chính thức tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước bảo hộ, chấm dứt sự cai trị của thực dân Pháp. Đến tháng 8-1945, sau khi tiếp xúc và bàn bạc kỹ lưỡng với đại diện Việt Minh, ông tiếp tục soạn thảo “Chiếu thoái vị” cho vua Bảo Đại.
“Chiếu thoái vị” là một văn kiện lịch sử có giá trị lớn, không chỉ về mặt chính trị mà còn là áng văn chương hàm chứa tinh thần yêu nước và tư tưởng độc lập sâu sắc. Trong đó, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đã tuyên bố: “Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước độc lập, quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa”. Đồng thời, một chiếu chỉ khác gửi đến con em trong hoàng tộc đã viết: “Sau khi đã chuẩn định ba chữ “Dân vi quý” làm khẩu hiệu của chánh thể mới… Trẫm nhất định thoái vị để giao vận mạng quốc gia cho một Chính phủ có đủ điều kiện huy động hết cả lực lượng của toàn quốc giữ vững nền độc lập của nước và mưu hạnh phúc cho dân”.
Vua Bảo Đại sau đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho chính phủ cách mạng lâm thời. Dù sau này ông có những lựa chọn chưa hoàn toàn đúng đắn, thì những lời tuyên bố và hành động của ông vào thời khắc lịch sử năm 1945 đã góp phần quan trọng giúp cách mạng tránh được tổn thất về xương máu, và để lại dấu ấn sâu sắc trong tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Phan Kế Toại (1892-1973, quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là một trí thức tiêu biểu, từng tốt nghiệp Học viện Hành chính Quốc gia Pháp và giữ nhiều chức vụ quan trọng như Tổng đốc các tỉnh Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Ninh... và Khâm sai Bắc Bộ vào năm 1945. Sẵn có tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ, ông không chỉ ủng hộ con trai tham gia Việt Minh, mà còn nhiều lần tiếp xúc bí mật với ông Nguyễn Khang - Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. Tối 17-8-1945, vào lúc 22h, trước khi rời nhiệm sở tại Bắc Bộ Phủ, ông đã dặn dò: “Tuyệt đối không được nổ súng và phải mở cửa ngay khi quân cách mạng tấn công”. Chính nhờ sự chủ động đó, đến ngày 19-8-1945, nhân dân Hà Nội đã chiếm được Phủ Khâm sai mà không phải nổ một phát súng nào - một thắng lợi có tính biểu tượng, đánh dấu thành công rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội.
Cùng thời điểm ấy, nhiều trí thức và quan lại khác như Đặng Văn Hướng - Tổng đốc Nghệ An (thân phụ của danh tướng “Hùm xám đường số 4” Đặng Văn Việt - chỉ huy một trong hai trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam), cùng nhiều tổng đốc, tri phủ, tri huyện khác cũng tự nguyện giao ấn tín, trao quyền lại cho chính quyền cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nền độc lập và tự do của dân tộc có sự đóng góp âm thầm nhưng to lớn của những người ấy - những trí thức yêu nước đã lựa chọn đứng về phía nhân dân, dân tộc và cách mạng.
2. Trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc - chống thực dân Pháp (1946-1954) và chống đế quốc Mỹ (1954-1975), đội ngũ trí thức được đào tạo từ thời Pháp thuộc và từ Pháp trở về theo Bác Hồ đã có những đóng góp to lớn, mang tầm vóc chiến lược. Họ cùng nhân dân chế tạo vũ khí, xây dựng quân đội, phát triển kinh tế và kiến thiết hệ thống giáo dục đại học nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Những tên tuổi như Phạm Ngọc Thạch, Hồ Đắc Di, Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Trần Hữu Tước, Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng, Trần Duy Hưng… là minh chứng sống động cho vai trò đặc biệt của trí thức trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến quốc.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), tốt nghiệp Đại học Y khoa tại Paris năm 1934, từng làm Giám đốc Bệnh viện Lao miền Đông nước Pháp. Sau khi trở về Việt Nam năm 1936, ông sử dụng chuyên môn y học của mình để làm giàu, sở hữu nhiều biệt thự ở Đà Lạt và hàng nghìn mẫu đất ở miền Tây. Nhưng khi cách mạng nổ ra, ông từ bỏ tất cả, tham gia kháng chiến từ năm 1945 và trở thành Bộ trưởng Y tế đầu tiên trong Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, ông rời miền Bắc để trở lại miền Nam dấn thân cùng đồng bào kháng chiến. Năm 1954 ông ra Bắc, và đến năm 1958, lại một lần nữa đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Y tế. Năm 1968, ông xung phong vào chiến trường miền Nam, trực tiếp tham gia cứu chữa thương binh, tìm cách điều trị bệnh sốt rét và các bệnh nguy hiểm khác cho nhân dân và chiến sĩ, và cuối cùng hy sinh vì chính căn bệnh ấy - sốt rét ác tính kèm viêm phúc mạc mật. Cuộc đời và cái chết của ông là một tấm gương nghĩa liệt, một sự hiến dâng trọn vẹn cho Tổ quốc.
3. Đồng chí Trường Chinh (tên khai sinh là Đặng Xuân Khu) cũng là một tấm gương ngời sáng của trí thức cách mạng. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học ở Nam Định (nay là tỉnh Ninh Bình), từng theo học Trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương dưới thời Pháp thuộc. Ông chính là cháu nội của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng - danh thần nổi tiếng liêm chính, người để lại một thư viện lớn nhất Bắc Bộ thời bấy giờ và biên soạn “Cổ huấn tử ca” để răn dạy con cháu về đạo làm người. Trong đó, câu “pháp bất vị thân” - phép nước không được thiên vị người thân - đã trở thành nguyên tắc sống và làm việc nghiêm minh của đồng chí Trường Chinh.
Tính kỷ luật, cẩn trọng, nguyên tắc được rèn luyện từ truyền thống gia đình và càng trở nên sâu sắc khi đồng chí trưởng thành trong môi trường Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), đồng chí đã trình bày Đường lối cải cách ruộng đất, xác định rõ: Đối tượng của cách mạng dân chủ và cải cách ruộng đất là giai cấp địa chủ. Tuy nhiên, để tập hợp lực lượng toàn dân đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ, kéo tiểu và trung địa chủ về phía kháng chiến, hoặc ít nhất trung lập họ, trong khi kiên quyết đấu tranh với bọn đại địa chủ phản động. Đường lối đó cũng nhấn mạnh, cần giảm tô, giảm tức như một nghĩa vụ với kháng chiến, không tước đoạt quyền sở hữu đất đai hợp pháp của địa chủ không phản quốc và phải thuyết phục là chính, kết hợp giữa hành chính và vận động quần chúng. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, chính sách cải cách ruộng đất đã bị tả khuynh, dẫn tới nhiều sai lầm nghiêm trọng, như quy kết, xử oan, thậm chí giết hại một số người vô tội. Tại Hội nghị Trung ương 10 (khóa II, tháng 10-1956), đồng chí Trường Chinh đã dũng cảm nhận trách nhiệm chính, từ chức Tổng Bí thư và trực tiếp phụ trách công tác sửa sai, hoàn thành nhiệm vụ một cách nghiêm túc, cầu thị.
Sau khi đồng chí Lê Duẩn qua đời (1986), đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Với tầm nhìn chiến lược và tinh thần đổi mới, đồng chí đã phất cao ngọn cờ Đổi mới, khởi đầu cho một giai đoạn chuyển mình quan trọng của đất nước. Tại Đại hội VI, tuy tiếp tục được tín nhiệm, đồng chí chủ động giới thiệu đồng chí Nguyễn Văn Linh kế nhiệm - một hành xử mẫu mực của một trí thức lớn.