A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Rà soát mức độ sẵn sàng thực hiện quy định về chống phá rừng tại Việt Nam

Thích ứng với Quy định sản phẩm hàng hóa không gây mất rừng (EUDR) của EU, Việt Nam có một số thuận lợi là đóng cửa, dừng khai thác rừng tự nhiên từ năm 2014; doanh nghiệp Việt Nam đã quen với Quy chế gỗ 995/2010 của EU, tham gia thực thi VPA/FLEGT hay thỏa thuận gỗ với Hoa Kỳ; diện tích rừng được cấp chứng chỉ rừng bền vững tăng nhanh.

Thời điểm thực hiện EUDR đang đến rất gần, trong đó, gỗ, cà phê, cao su là 3 ngành hàng của Việt Nam bị tác động lớn nhất. Thời điểm thực hiện EUDR đang đến rất gần, trong đó, gỗ, cà phê, cao su là 3 ngành hàng của Việt Nam bị tác động lớn nhất.

Vừa qua, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội thảo rà soát mức độ sẵn sàng thực hiện quy định về chống phá rừng của Liên minh Châu Âu (EUDR) cho ngành Cà phê và Gỗ ở Việt Nam. Hội thảo này nhằm cập nhật những thông tin mới nhất về EUDR và ​​thảo luận về kết quả rà soát, đánh giá mức độ sẵn sàng thực hiện EUDR được tiến hành ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh.

Quy định EUDR, có hiệu lực vào ngày 29/6/2023, quy định rằng các sản phẩm được đưa vào hoặc xuất khẩu từ thị trường châu Âu phải có thể truy xuất được nguồn gốc, không phá rừng và được sản xuất hợp pháp. 

Đại diện Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) và UNDP đã nêu bật những nỗ lực của Việt Nam trong tiến trình thực hiện EUDR, đặc biệt là trong lĩnh vực cà phê và gỗ, đồng thời cung cấp những thông tin thực tế hỗ trợ cho các kế hoạch hành động theo các yêu cầu của quy định EUDR. Các đại biểu cũng thảo luận về các vấn đề xung quanh phương thức chia sẻ dữ liệu, phương pháp phân tích, tính hợp pháp và hỗ trợ các nông hộ nhỏ...

Cục trưởng Cục Lâm nghiệp Trần Quang Bảo cho biết, Việt Nam đã có cơ sở dữ liệu toàn quốc về tài nguyên rừng một cách tập trung, đảm bảo tính khách quan, minh bạch do số liệu được trích xuất từ bản đồ. Nhiều khu vực rừng đã có chứng chỉ, có thể xác minh nguồn gốc, ngoài ra còn có nhiều nguồn bản đồ và cơ sở dữ liệu khác khác có thể hỗ trợ cho tạo lập cơ sở dữ liệu... Công việc cần thiết thực hiện là chuẩn hóa quy trình, phương pháp thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu thống nhất để mỗi huyện, tỉnh có thể sử dụng cùng một phương pháp và công cụ khi thành lập các cơ sở dữ liệu và bản đồ.

“Đây là thời điểm mà Quy định của Liên minh Châu Âu về sản phẩm hàng hóa không gây mất rừng đang đến rất gần, ngành gỗ, cà phê và cao su là 3 ngành hàng của Việt Nam bị tác động lớn nhất bởi quy định của EUDR", ông Trần Quang Bảo nhận định.

Thích ứng với EUDR, Việt Nam có một số thuận lợi là đóng cửa, dừng khai thác rừng tự nhiên từ năm 2014; doanh nghiệp Việt Nam đã quen với Quy chế gỗ 995/2010 của EU, tham gia thực thi VPA/FLEGT hay thỏa thuận gỗ với Hoa Kỳ; diện tích rừng được cấp chứng chỉ rừng bền vững tăng nhanh.

Để thực thi EUDR tại Việt Nam, ngoài các quy định chính sách về đất đai, về phát triển nông, lâm nghiệp bền vững theo chuỗi giá trị đáp ứng các tiêu chuẩn, yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu đòi hỏi năng lực quản lý và cách tiếp cận liên ngành và đồng bộ của các cơ quan quản lý, các bên liên quan cũng như sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị cung ứng và các nông hộ, cộng đồng.

Theo ông Patrick Haverman - Phó Đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam, những phát hiện của đánh giá độ sẵn sàng sẽ cung cấp thông tin cho các chiến lược và hành động, đảm bảo rằng Việt Nam vẫn là quốc gia đi đầu trong sản xuất bền vững và không gây mất rừng. Nhấn mạnh việc chia sẻ dữ liệu và bản đồ là điều cần thiết, ông Patrick Haverman cho biết, cần thiết lập các giao thức rõ ràng về cách Chính phủ sẽ chia sẻ dữ liệu và bản đồ với các bên, bao gồm các nền tảng sẽ được sử dụng và các loại dữ liệu có thể được chia sẻ. Đồng thời, cần phát triển các phương pháp phân tích định nghĩa rừng, không mất rừng và phân tích rủi ro. Bên cạnh đó, việc phân tích tính hợp pháp cũng quan trọng không kém.

Đại diện của UNDP cũng lưu ý đến việc phải tập trung vào việc hỗ trợ các hộ nhỏ đang đối mặt với nhiều thách thức. Điều quan trọng là phải cung cấp cho các hộ nhỏ nguồn lực và kiến thức cần thiết để tuân thủ các tiêu chuẩn EUDR mà không ảnh hưởng quá mức đến sinh kế của họ.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết