A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đề xuất điều chỉnh, mở rộng phạm vi của 4 vùng động lực quốc gia

Sáng 7-11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ mười, Quốc hội nghe tờ trình về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030.

quoc-hoi1.jpg

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày tờ trình. Ảnh: media.quochoi.vn

Trình bày tờ trình việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, các nội dung quy hoạch được bổ sung, điều chỉnh nhằm phù hợp với việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong giai đoạn 2026-2030 và các năm tiếp theo; thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giáo dục và đào tạo; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; an ninh năng lượng...; đồng thời, ứng phó với các biến động nhanh, khó lường của bối cảnh quốc tế.

Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 được điều chỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8%/năm thời kỳ 2021-2030; trong đó, giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10%/năm trở lên.

Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 8,5%/năm giai đoạn 2026-2030; đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt khoảng 0,78.

Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2031-2050 phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7-7,5%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 38.000 USD; chỉ số phát triển con người đạt trên 0,85.

quoc-hoi3.jpg

Quang cảnh phiên họp sáng 7-11. Ảnh: media.quochoi.vn

Trên cơ sở đánh giá hiện trạng lãnh thổ nước ta, các phương án phân vùng qua từng thời kỳ và yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, cả nước được phân thành 6 vùng: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 9 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La; Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 6 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh; Vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế; Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 6 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng; Vùng Đông Nam Bộ gồm 3 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 5 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau.

Điều chỉnh, mở rộng phạm vi của 4 vùng động lực quốc gia, bao gồm Vùng động lực phía Bắc, Vùng động lực phía Nam, Vùng động lực miền Trung, Vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long ra khu vực phụ cận, là các địa bàn có mạng lưới kết cấu hạ tầng đã và đang được đầu tư, bố trí các khu, cụm công nghiệp, các đô thị, khu đô thị...

quoc-hoi2.jpg

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi báo cáo thẩm tra. Ảnh: media.quochoi.vn

Báo cáo thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cơ bản tán thành việc bổ sung, điều chỉnh các nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia nhằm phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030 và các năm tiếp theo; thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương.

Về phát triển các vùng động lực, Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội nhận thấy, Vùng động lực Bắc Trung Bộ và Vùng động lực miền Trung là hai vùng động lực có vị trí địa lý cạnh nhau, có tiềm năng khai thác về nguồn lợi biển và cùng định hướng phát triển về công nghiệp lọc hóa dầu, công nghiệp ô tô và phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, dịch vụ logistics...

Do đó, Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội đề nghị cần đánh giá lợi thế so sánh giữa 2 vùng động lực này để điều chỉnh phù hợp với định hướng phát triển của từng vùng, tránh chồng lấn, cạnh tranh lẫn nhau, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển chung của cả nước. Đồng thời, cần đánh giá và xác định rõ cực tăng trưởng của Vùng động lực Bắc Trung Bộ để định hướng, dẫn dắt sự phát triển của Vùng này, tương tự như các vùng động lực khác.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết