A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Bước chuyển trong tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng, an ninh

Quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Điều này luôn được Đảng ta nhất quán từ khi ra đời cho đến nay.

Qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta lại có bước phát triển mới trong tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh mới, tại Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV lần này, Đảng ta đã mở rộng, nâng tầm tư duy về quốc phòng, an ninh lên bước mới cao hơn.

“Đột phá phát triển” công nghiệp quốc phòng, an ninh

Nhìn lại một số kỳ đại hội gần đây, chúng ta thấy, nếu như Đại hội VI mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện, thì ở Đại hội IX, Đảng ta đã xác lập khái niệm “nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân”. Đến Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, tư duy về quốc phòng - an ninh của Đảng tiếp tục được mở rộng, nâng lên tầm cao mới, đó là: Quốc phòng, an ninh toàn diện, chủ động, tự chủ và gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế – xã hội, đối ngoại và khoa học công nghệ.

Những điểm mới được thể hiện trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV không chỉ là sự bổ sung kỹ thuật, hay thuật ngữ, mà là bước chuyển trong nhận thức chiến lược, phản ánh sâu sắc bối cảnh quốc tế và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ hội nhập sâu, cạnh tranh chiến lược gay gắt và sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tại các kỳ Đại hội trước, nhất là từ Đại hội X đến Đại hội XIII, Đảng ta nhất quán quan điểm xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh vững mạnh, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Tuy nhiên, các văn kiện chủ yếu nhấn mạnh nhiệm vụ “xây dựng” và “phát triển”, mà chưa đặt ra yêu cầu đột phá chiến lược.

Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV lần này, Đảng ta nêu rõ: “Đột phá phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại…”. Đây là lần đầu tiên các yếu tố “đột phá - tự chủ - lưỡng dụng” được đặt cạnh nhau, tạo nên một định hướng phát triển hoàn toàn mới.

Nếu trước đây, công nghiệp quốc phòng chủ yếu phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, thì nay được xác định là nguồn lực phát triển quốc gia, vừa phục vụ quốc phòng, an ninh, vừa tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm “lưỡng dụng” thể hiện tư duy tích hợp: Quốc phòng là sức mạnh của cả nền kinh tế, còn kinh tế là hậu phương của quốc phòng.

Như vậy, so với văn kiện Đại hội XIII mới chỉ dừng ở yêu cầu “phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, tự lực, tự cường”, thì Dự thảo văn kiện Đại hội XIV đã nâng lên một tầm mới - nhấn mạnh tính “đột phá” và “tự chủ chiến lược”, coi đây là một trong những hướng trọng tâm của hiện đại hóa đất nước.

Các khối khí tài quân sự tiến qua lễ đài.

Các khối khí tài quân sự tiến qua lễ đài Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ảnh: Viết Thành

Đặt quốc phòng - an ninh - đối ngoại trong một thể thống nhất

Từ Đại hội XI, Đảng ta đã đề cập phương châm “kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc”. Trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, tư duy này được mở rộng và nhấn mạnh hơn, thể hiện bằng cụm từ: "Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong một thể thống nhất, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa".

Tư duy “một thể thống nhất” là bước phát triển vượt bậc so với các kỳ Đại hội trước. Nếu như trước đây, ba lĩnh vực quốc phòng - an ninh - đối ngoại thường được xem là ba trụ cột độc lập cùng hỗ trợ lẫn nhau, thì nay, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV đã xác định rõ quốc phòng - an ninh - đối ngoại là các yếu tố cấu thành không thể tách rời trong tổng thể sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, phương châm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy” vốn được đề cập tại Đại hội XIII - nay được Đảng ta làm sâu sắc hơn. Đây là chuyển biến từ tư duy “phản ứng” sang tư duy “chủ động dự báo và phòng ngừa chiến lược”. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ bằng sức mạnh quân sự, mà còn bằng sức mạnh ngoại giao, kinh tế, văn hóa và niềm tin xã hội.

Từ “an ninh truyền thống” đến “thế trận lòng dân” trong thời kỳ chuyển đổi số

Một điểm mới nổi bật khác trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng là việc mở rộng khái niệm an ninh quốc gia sang các lĩnh vực phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng, an ninh số, chủ quyền dữ liệu, trí tuệ nhân tạo.

Trong các văn kiện Đại hội trước đây, nội dung này chưa từng xuất hiện. Nếu Đại hội XIII mới nhấn mạnh “chủ động ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống”, thì Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV đã nhìn xa hơn khi coi không gian mạng và không gian số là vùng lãnh thổ mới cần được bảo vệ như biên giới trên đất liền, trên biển, trên không…

Tư duy này phản ánh thực tiễn: Trong kỷ nguyên số, chiến tranh không nhất thiết nổ ra bằng vũ khí, mà có thể bắt đầu bằng tấn công mạng, thao túng thông tin, lộ lọt dữ liệu, hay chi phối, hướng lái dư luận. Việc xác định “an ninh số quốc gia” trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV là bước phát triển mang tính chiến lược - mở đường cho xây dựng thể chế, lực lượng và công nghiệp an ninh số trong tương lai.

Cùng với xác định bảo đảm “an ninh số quốc gia”, Đảng ta xác định “lòng dân là gốc của sức mạnh bảo vệ Tổ quốc”. Đây là bài học quý báu mà dân tộc Việt Nam đã đúc rút từ ngàn đời. Trong mọi giai đoạn lịch sử, lòng dân luôn là nền tảng của sức mạnh quốc gia. Có dân thì nước mạnh, dân thuận thì việc gì cũng thành công. Trong thời kỳ chuyển đổi số, sức mạnh ấy càng mang ý nghĩa mới, sâu sắc hơn. Việc Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ chuyển đổi số là rất đúng, hoàn toàn phù hợp với bối cảnh.

Chuyển đổi số không chỉ là chuyện công nghệ hay máy tính, mà là cuộc chuyển đổi của ý chí, niềm tin, của lòng người - từ cách nghĩ, cách làm đến cách sống trong thời đại mới.

“Thế trận lòng dân” ngày nay không chỉ nằm trong làng quê, khu phố, cơ quan, đơn vị, mà còn hiện diện trên không gian mạng - nơi mỗi người dân vừa là công dân, vừa là người lan tỏa các giá trị tích cực, vừa là người đấu tranh với những luận điệu sai trái, tiêu cực. Việc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nhiệm vụ cấp thiết không chỉ để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, mà còn góp phần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Muốn xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong kỷ nguyên số, trước hết phải đặt người dân ở trung tâm. Mọi chính sách, nền tảng hay dịch vụ công cần thuận tiện, minh bạch, giúp dân thấy chuyển đổi số mang lại lợi ích thực sự cho mình. Khi “chuyển đổi số vì dân, do dân và cùng dân”, lòng dân mới thuận. Cùng với đó, phải bảo đảm an toàn, an ninh và đạo đức số.

Lòng dân chỉ vững bền khi niềm tin số được giữ vững - khi người dân cảm thấy an toàn trong thế giới mạng và được tôn trọng trong từng dữ liệu, thông tin. Củng cố “thế trận lòng dân” còn là xây dựng văn hóa số. Chúng ta phải làm sao để mỗi người nhận thức và biết dùng mạng để xây dựng, chứ không phải dùng mạng để phá hoại; dùng mạng để lan tỏa điều thiện, chặn đứng cái xấu; phản biện có văn hóa, hành xử có trách nhiệm.

Chuyển đổi số chỉ thật sự thành công khi nó trở thành chuyển đổi của niềm tin - khi công nghệ nhịp cầu kết nối ý Đảng với lòng dân, khi mỗi người dân là một “chiến sĩ số” góp phần dựng xây đất nước hiện đại, văn minh. Dữ liệu có thể là tài nguyên mới, nhưng lòng dân vẫn mãi là sức mạnh cốt lõi. Trong kỷ nguyên số, “thế trận lòng dân” chính là “bức tường mềm” nhưng kiên cố nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, củng cố niềm tin, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết, và dẫn dắt đất nước bước vào tương lai.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết